6 nguyên tắc cơ bản của lý thuyết Dow

3.5/5 - (2 bình chọn)
  1. Chỉ số bình quân thị trường phản ánh tất cả“Tổng và xu thế của các giao dịch trên sàn chứng khoán thể hiện tổng lượng thông tin của Phố Wall trong quá khức, kể cả quá khứ gần đây lẫn xa xưa, được ứng dụng để phán ánh tương ai. Giông như một số nhà thống kê vẫn thường làm, chúng ta không cần phải bổ sung vào chỉ số trung bình như các chỉ số giá hàng hóa, hoạt động thanh toán bù trừ của ngân hàng, dao động tỷ giá hối đoái, khối lượng giao dịch trong và ngoài nước hay bất cứ thứ gì. Wall Street sẽ cân nhắc tât cả những điều này.” (Halmington, trang 40-41).Quan điểm thị trường phản ánh tất cả những yếu tố có ảnh hưởng chung đến cung cầu chính là một trong những tiền đề căn bản của lý thuyết kỹ thuật. Lý thuyết này có hiệu quả đối với các chỉ số trung bình của thị trường cũng như đói với các thị trường riêng lẻ và thậm chí chiếu cố cả thiên tai. Mặc dù không thẻ dự đoán được những sự kiện như động đát hay thiên tai, nhưng thị trường lại có thể phản ánh những sự cố này bằng cách tác động gần như là lập tức đến giá cả.
  2. Thị trường có ba xu hướng chínhTrước khi bàn luận về sự vận hành của các xu hướng, cần phải làm rõ định nghĩa xu hướng (Trend)của Dow. Dow định nghĩa một xu hướng tăng (uptrend) là khi thị trường có mức giá giao dịch cao nhất hiện tại cao hơn các mức giá đỉnh trước đây, và mức giá thấp nhất tại thời điểm hiện tại cũng cao hơn các mức giá thấp nhất trong quá khứ. Nói cách khác, một xu hướng tăng có đồ thị gồm các đỉnh và đáy tăng dần. Ngược lại, thị trường có xu hướng giảm (downtrend) khi mức giá cao nhất và thấp nhất của thị trường hiện tại thấp hơn mức cao nhất và thấp nhất trong quá khứ. Định nghĩa của Dow đã được thử thách qua thời gian và vẫn luôn được coi là nền móng cho việc phân tích xu hướng.Dow tin rằng các quy luật về sự tác động và phản ứng được áp dụng cho các thị trường cũng như đối với thế giới vật chất. Ông đã viết “Hồ sơ giao dịch cho thấy rằng, trong nhiều trường hợp, khi chạm đỉnh chứng khoán sẽ suy giảm đôi chút và sau đó quay đầu tiến gần về mức cao nhất. Nếu sau một biến động như trên mà giá lại rơi xuống nữa thì có khả năng nó sẽ giảm sâu hơn,” (Nelson, trang 43).

    Dow xét thấy rằng một xu hướng phải có ba thành phần (three parts)primary, secondary và minor. Primary trends đại diện cho thủy triều, secondary trends đại diện cho những đợt sóng hình thành nên thủy triều và minor trends biểu hiện cho những gợn sóng lăn tăn.

    Người quan sát có thể xác định được hướng của thủy triều (primary trend) bằng cách đánh dấu điểm cao nhất của từng đợt sóng liên tiếp. Nếu mỗi đợt sóng chạm đỉnh cao hơn đợt sóng trước, tức thủy triều đang lên. Khi đỉnh của các làn sóng liên tiếp giảm dần thì có nghĩa là thủy triều đang rút. Không như thủy triều thực sự của đại dương chỉ kéo dài trong vài giờ, Dow cho rằng thủy triều của thị trường kéo dài hơn một năm, có khi là vài năm.

    Xu hướng thứ hai (secondary) hay giai đoạn trung gian (intermediate) là sự hiệu chỉnh của xu hướng chính (primary) và thường là kéo dài từ ba tuần đến ba tháng. Nhìn chung, những hiệu chỉnh intermediate này thoái lùi (retrace) khoảng một phần ba tên hai phần ba xu hướng trước đó và đa phần là một nửa, hay 50%.

    Theo Dow, Minor (hoặc near term) trend thường ngắn hơn ba tuần. Xu hướng này là sự dao động của xu hướng trung gian (intermediate trend).

  3. Xu hướng chính (Major trends) gồm ba giai đoạn (3 phases):Một xu thế tăng giá cơ bản thường bao gồm 3 thời kì.
    • Thời kì đầu tiên là quá trình “tích tụ”. Trong quá trình này, những nhà đầu tư có tầm nhìn xa sẽ tiến hành xem xét các doanh nghiệp, có thể vào thời kì này doanh nghiệp đang suy thoái nhưng nhà đầu tư nhận thấy khả năng doanh ngiệp có thể chuyển biến tình hình thành tăng trưởng nhanh chóng,có thể giá cổ phiếu của nó sẽ tăng trong thời gian tới. Đây cũng là thời điểm mà cổ phiếu này đang được chào bán rất nhiều bởi những nhà đầu tư đang có tâm lý rất chán nản và lo lắng về tình trạng của những cổ phiếu của họ và để nhằm tăng dần giá chào bán của họ khi thị trường xuất hiện sự suy giảm trong khối lượng giao dịch. Các bản báo cáo tài chính của doanh nghiệp đó có thể không tốt thậm chí tồi, rất tồi. Giới đầu tư hoàn toàn cảm thấy thất vọng khi tham gia vào thị trường chứng khoán bởi họ thấy tiền đầu tư của họ đang giảm nhanh chóng và có nguy cơ còn giảm nữa, vì vậy mà họ muốn thoát ra khỏi thị trường.Tuy nhiên có thể nhận thấy một điều vào cuối giai đoạn thứ nhất này là trong hoạt động của công ty và trong những biến động trên thị trường đã có những biến chuyển tuy mới chỉ ở mức hạn chế, bắt đầu xuất hiện những đợt tăng giá nhỏ.
    • Thời kì thứ 2 là thời kì của sự tăng trưởng khá vững chắc. Họat động của doanh ngiệp đang theo dõi gia tăng mạnh cùng với những khởi sắc trong nội bộ doanh nghiệp và doanh thu của nó cũng tăng dần và bắt đầu thu hút các mối quan tâm trên thị trường. Đây chính là thời kì mang lại nhiều lợi nhuận cho các nhà kinh doanh chứng khoán theo trường phái phân tích kĩ thuật.
    • Cuối cùng là thời kì thứ 3. Trong thời kì này thị trường sôi sục với những biến động của nó. Công chúng rất háo hức với từng biến động của thị trường.Tất cả các thông tin tài chính của doanh nghiệp đưa ra đều rất tốt, giá chứng khoán tăng cao ngoài sức tưởng tượng và đang là những vấn đề nóng hổi được đưa lên trang đầu của các tờ báo ra hàng ngày.Thời điểm này có lẽ đã là 2 năm kể từ khi thị trường bắt đầu đi lên,những người ít kinh nghiệm có thể cho rằng thị trường lúc này mới chắc chắn cho lợi nhuận của họ và muốn tham gia vào thị trường. Nhưng thực sụ thì sau 2 năm, giá đã tăng khá cao, câu hỏi nên đặt ra vào lúc này là “nên bán cổ phiếu nào” chứ không còn là “nên mua cổ phiếu nào” nữa. Vào cuối thời kì thứ 3, người ta có thể thấy nạn đầu cơ tràn lan, khối lượng giao dịch vẫn tiếp tục tăng nhưng “air-pocket” xuất hiện và cũng gia tăng thường xuyên,số lượng cổ phiếu có giá thấp nhưng không có giá trị đầu tư cũng gia tăng và cả những đợt phát hành trái phiếu cũng ít dần đi.

    6 nguyên tắc cơ bản của lý thuyết Dow
    Xu thế giảm giá của thị trường cũng được chia thành 3 thời kì.

    • Thời kì đầu tiên là thời kì “phân bổ” (thời kì này thực sự bắt đầu ở giai đoạn cuối của thị trường giá lên trước đó). Trong thời kì này những nhà đầu tư có tầm nhìn xa đều nhận thấy rằng doanh thu của những công ty mà họ đang nắm giữ cổ phiếu đều đang đạt mức cao không bình thường và họ muốn nhanh chóng thoát khỏi cổ phiếu của các công ty này. Khối lượng giao dịch vẫn rất cao mặc dù đã có những dấu hiệu của xu hướng giảm, công chúng vẫn rất “năng động” nhưng cũng bắt đầu có dấu hiệu lo lắng và cũng không còn nhiều kỳ vọng kiếm lợi nhuận.
    • Thời kì thứ 2 được gọi là thời kì hỗn loạn. Số lượng người mua bắt đầu giảm dần và những người bán bắt đầu trở nên vội vã bán đi những cổ phiếu mình đang nắm giữ. Xu thế giảm giá bắt đầu tăng mạnh làm đồ thị giá gần như dốc thẳng xuống và khối lượng giao dịch đạt đến mức đỉnh điểm. Giai đoạn này được gọi là hỗn loạn vì sự sụt giảm thường xảy ra rất trầm trọng thậm chí là thái quá với mức độ vượt quá cả thực trạng của các doanh nghiệp. Sau giai đoạn hỗn loạn có thể có giai đoạn hồi phục(một dạng xu thế cấp 2) hoặc một giai đoạn dao động ngang của thị trường (các dao động không có hướng đi lên hay đi xuống mà là dao động trong một khoảng cố định theo chiều ngang của thị trường) trong một thời gian tương đối dài. Giai đoạn này thể hiện tâm lý chán nản của một bộ phận nhà đầu tư,họ cũng chính là những người đã cố gắng nắm giữ cổ phiếu qua thời kì hỗn loạn trước đó hoặc cũng có thể là những người đã mua cổ phiếu trong thời kì đó bởi vì lúc đó giá củ cổ phiếu rõ ràng là rẻ hơn rất nhiều so với trước đó vài tháng. Thông tin về các doanh nghiệp ngày càng xấu đi. Kết thúc giai đoạn này mới bước vào thời kì thứ 3.
    • Vào thời kì thứ 3, xu thế đi xuống trên thị trường đã yếu dần, nhưng lại được duy trì bởi những lệnh bán nhiều và liên tục thể hiện “nỗi buồn” và sự lo lắng của những nhà đầu tư đang rất cần tiền cho những nhu cầu riêng của họ. Các cổ phiếu đều giảm đến mức thấp nhất, thậm chí gần như mất hoàn toàn giá trị. Những cổ phiếu có chất lượng cao hầu như không được giao dịch vì những người sở hữu chúng đều muốn nắm giữ đến cùng. Ở giai đoạn cuối của thị trường giá xuống, như một kết quả của toàn bộ thời kì giảm giá trước,cả thị trường chỉ tập trung vào giao dịch một số loại cổ phiếu. Thị trường giá xuống kết thúc tất cả với những tin xấu về các doanh nghiệp, về thị trường ở mức có thể coi là tồi tệ nhất đã thể hiện ra và có thể đến.
  4. Các chỉ số trung bình phải củng cố lẫn nhauĐây là câu hỏi thường xuyên đặt ra nhất và cũng khó giải thích nhất đối với hệ thống các nguyên lý của lý thuyết Dow. Tuy nhiên từ khi được đưa ra cho đến nay nó đã được thời gian chứng minh tính đúng đắn và nó vẫn được vận dụng cho đến ngày nay và bất kì một ai khi xem xét những số liệu ghi lại thì đều không thể có ý kiến phản đối với nguyên lý này.Còn với những người ít quan tâm hay bỏ qua nguyên lý này thì trong thực tế kinh doanh sẽ phải nhiều lần tiếc nuối. Điều nguyên lý này muốn nói đến đó là không thể có một dấu hiệu chính xác nào về sự thay đổi xu thế thị trường có thể được ra chỉ thông qua xem xét biến động của duy nhất một loại chỉ số bình quân (ở đây muốn nói đến những thị trường bao gầm nhiều chỉ số bình quân,chẳng hạn như ở Mĩ, như nói ở phần đầu, có hai loại chỉ số bình quân).
  5. Khối lượng giao dịch phải xác nhận xu hướngDow công nhận khối lượng giao dịch là một yếu tố đứng thứ hai nhưng không kém phần quan trọng trong việc xác nhận những tín hiệu giá. Có thể nói đơn giản rằng, khối lượng giao dịch sẽ gia tăng theo hướng phát triển của xu hướng chính. Trong một xu hướng giá tăng, khối lượng giao dịch sẽ tăng khi giá tăng lên, và giảm khi giá giảm. Trong một xu hương giảm, khối lượng giao dịch sẽ tăng khi giá giảm và giảm khi giá phục hồi mức tăng. Dow xem khối lượng giao dịch là một chỉ báo có tầm quan trọng thứ hai. Ông quan sát những tín hiệu mua bán hoàn toàn dựa trên giá đóng cửa. Ngày nay, các chỉ báo phức tạp về khối lượng giúp chúng ta xác định khối lượng đang gia tăng hay suy giảm. Những nhà giao dịch khôn ngoan sẽ biết sử dụng kiến thức này để đánh giá biến động giá và xem liệu hai chỉ số này có củng cố lẫn nhau hay không.
  6. Một xu hướng được cho là sẽ tiếp diễn cho đến khi có tín hiệu đảo chiềuTiền đề này hình thành nên phần lớn nền tảng của cách tiếp cận hiện đại tuân theo xu hướng. Nó liên quan đến một quy tắc vật lý về biến động thị trường, trong đó một vất thể đang chuyển động (trong trường hợp nà là một xu hướng) có khuynh hướng tiếp tục chuyển động cho đến khi những tác động ngoại vi khiến nó thay đổi hướng đi. Có nhiều công cụ hỗ trợ các nhà giao dịch phát hiện ra tín hiệu đảo chiều, bao gồm nghiên cứu về ngưỡng hỗ trợ và ngưỡng kháng cự, mô hình giá, đường xu hướng và đường trung bình di động. Một số chỉ báo còn có thể đưa ra cảnh báo sớm về nguy cơ mất xung lượng. Nếu tất cả chúng không cho thấy điều gì có nghĩa là xu hướng hiện tại sẽ tiếp diễn.Công việc được xem là khó khăn nhất đối với một người theo lý thuyết Dow hay bất kỳ một nhà giao dịch theo xu hướng nào là phân biệt một sự hiệu chỉnh thứ yếu trong xu hướng hiện tại với giai đoạn tín hiệu đầu tiên của một xu hướng mới đảo nghịch. Những người theo lý thuyết Dow thường xuyên bất đồng về việc xác định thời điểm xuất hiện tín hiệu đảo chiều thực sự.

Lưu ý: Có rất nhiều bài viết trên mạng viết về các nguyên tắc của lý thuyết Dow, nếu bạn có đọc được bài viết nào trình bày lý thuyết Dow với 12 nguyên tắc mà không phải 6 thì rất có thể tác giả bài viết đó đã tham khảo từ cuốn “Technical Analysis of Stock Trend” của Edward & Magee (từ trang 15 đến 23). Tuy nhiên, cách liệt kê thành 12 mục như vậy dễ gây hiểu nhầm và không hợp lý. Chẳng hạn như mục 3 viết về The Primary Trends, mục 4 viết về The Secondary Trends, mục 5 viết về The Minor Trend. Thực tế thì 3 mục này chỉ là phần nội dung của nguyên tắc thứ 2 trình bày ở trên: Thị trường có ba xu hướng chính. Tóm lại, sau khi đánh giá, thẩm định nhiều tài liệu và tham khảo nhiều nguồn khác nhau thì có thể khẳng định rằng lý thuyết Dow gồm có 6 nguyên tắc như trình bày chính xác ở trên.

Theo dõi
Thông báo của
guest

0 Bình luận
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận