Th6 06 Thứ Năm, 6 Tháng Sáu, 2013

Xu hướng (trend)

Định nghĩa xu hướng:

“Xu hướng” (trend) hay “Xu thế” là khái niệm cơ bản đối với phương pháp phân tích kỹ thuật để phân tích thị trường. Tất cả các công cụ dành cho người sử dụng đồ thị như ngưỡng hỗ trợ và kháng cự, mô hình giá,đường trung bình di động, đườngxu hướng, v.v… đều có một mục đích duy nhất là giúp xác định xu hướng của thị trường để có thể tham gia vào xu hướng đó. Chúng ta thường nghe thấy những câu quen thuộc như “phải luôn giao dịch theo chiều hướng của xu hướng”, “đừng đi lệch xu hướng”, hoặc “xu hướng là người bạn đồng hành”. Vậy thì hãy cùng nhau xác định xem xu hướng là gì đồng thời phân loại chúng thành một số nhóm.

Nhìn chung, xu hướng chỉ đơn giản là chiều hướng cũng như cách thức dịch chuyển của thị trường. Nhưng chúng ta cần có một định nghĩa chính xác hơn. Trước hết, thị trường không bao giờ di chuyển theo một đường thẳng về bất kỳ hướng nào. Sự biến động của thị trường bao gồm hàng loạt chuyển động zíc zắc. Những đường zíc zắc này giống những đợt sóng liên tiếp bao gồm các đỉnh và đáy rõ rệt. Chiều hướng của những đỉnh và đáy này cấu thành xu hướng thị trường. Cho dù có đi lên, xuống hay đi ngang thì những đỉnh và đáy này cũng cho ta thấy xu hướng của thị trường. Một xu hướng được gọi là tăng khi các đỉnh và đáy liên tục đi lên, ngược lại, một xu hướng được gọi là giảm khi các đỉnh và đáy đi xuống; còn các đỉnh và đáy nằm ngang sẽ tạo nên một xu hướng đi ngang (không rõ xu hướng).

Xu hướng (trend)
Hình 1: Ví dụ về xu hướng tăng với đỉnh và đáy đi lên.
Xu hướng (trend)
Hình 2: Ví dụ về xu hướng đi ngang gồm những đỉnh và đáy tạo thành một hàng ngang.
Dạng thị trường này thường được gọi là “không rõ xu hướng”.
Xu hướng (trend)
Hình 3: Ví dụ về xu hướng tăng với đỉnh và đáy đi xuống.
Xu hướng (trend)
Hình 4: Ví dụ về một xu hướng giảm chuyển thành xu hướng tăng. Phần đầu bên trái là một xu hướng giảm.
Từ tháng 4 năm 1996 đến tháng 4 năm 1997 thị trường dao động không rõ xu hướng.
Còn giai đoạn mùa hè năm 1997 thị trường chuyển dịch theo xu hướng tăng.

Xu hướng có 3 chiều hướng:

Chúng ta đã nói đến xu hướng tăng, giảm và đi ngang với lý do hợp lý. Phần lớn mọi người thường có khuynh hướng cho rằng thị trường luôn theo xu hướng tăng hoặc giảm. Nhưng thực tế cho thấy rằng thị trường biến động theo ba hướng: lên, xuống và đi ngang. Điều quan trọng là cần nhận thức được sự tương phản này bởi theo ước tính thấp hơn so với thực tế, chí ít một phần ba thời gian này giá cũng biến động theo một biên độ nằm ngang được gọi là phạm vi giao dịch (trading range). Dạng vận động đi ngang này phản ánh một giai đoạn giá thăng bằng khi áp lực cung cầu tương đối cân bằng. Mặc dù chúng ta xác định thị trường “đứng im” khi có xu hướng đi ngang nhưng mọi người thường xem nó là thị trường “không rõ xu hướng”.

Về bản chất, hầu hết các công cụ và hệ thống kỹ thuật đều đi theo xu hướng, có nghĩa là chúng được thiết kế cho những thị trường tăng hoặc giảm. Chúng thường vận hành rất kém khi thị trường rơi vào giai đoạn đi ngang hoặc không rõ xu hướng. Chính trong những lúc thị trường đi ngang như thế này, các nhà giao dịch theo phương pháp phân tích kỹ thuật nếm trải những cảm giác thất vọng nhất cũng như những thua lỗ trầm trọng nhất. Theo định nghĩa, một hệ thống tuân theo xu hướng cần một xu hướng để hoạt động. Sự bất động ở đây không phải bởi hệ thống mà là do nhà giao dịch cố gắng áp dụng một hệ thống vốn được thiết kế dành cho thị trường vận động có xu hướng vào một môi trường không có xu hướng.

Nhà giao dịch phải đối mặt với ba quyết định chính là muabán hặc không làm gì cả. Khi thị trường đang tăng giá, chiến lược mua được coi là phù hợp. Khi thị trường đang giảm, quyết định bán là điều cần làm. Tuy nhiên, nếu thị trường đi ngang, quyết định thứ ba – không tham gia vào thị trường – thường được coi là lựa chọn khôn ngoan nhất.

Xu hướng có 3 loại:

Ngoài sự hiện diện của ba chiều hướng, xu hướng còn được phân chia thành ba loại là xu hướng chính, xu hướng trung gian và xu hướng ngắn hạn. Trên thực tế gần như không thể xác định được số lượng xu huớng có mối tương tác với một xu hướng khác, từ xu hướng rất ngắn hạn chỉ diễn ra trong vài phút hoặc vài giờ đồng hồ đến những xu hướng cực dài diễn ra từ 50 đến 100 năm. Tuy nhiên, hầu hết các nhà phân tích kỹ thuật đều giới hạn phân loại xu hướng thành ba loại. Tuy vậy, ở đây có một số nhập nhằng trong cách định nghĩa của các nhà phân tích khác nhau.

Ví dụ, lý thuyết Dow xếp xu hướng chính như là loại xu hướng có hiệu lực trên một năm. Vì các nhà giao dịch tương lai hoạt động trong một giới hạn thời gian ngắn hơn so với các nhà đầu tư chứng khoán nên chúng ta có khuynh hướng rút ngắn xu hướng chínhđối với bất cứ thứ gì trên 6 tháng cho thị trường hàng hóa. Dow xác định xu hướng trung gian hay xu hướng thứ cấp là 3 tuần hoặc nhiều tháng – điều xem ra khá phù hợp cho thị trường tương lai. Xu hướng ngắn hạn được xác định với khoảng thời gian ít hơn 2 hoặc 3 tuần.

Mỗi xu hướng là một phần của xu hướng kế tiếp lớn hơn. Ví dụ, xu hướng trung gian sẽ là một sự hiệu chỉnh trong xu hướng chính. Trong một xu hướng tăng dài hạn, thị trường chững lại để hiệu chỉnh trong một vài tháng trước khi quay lại bước tăng giá của mình. Sự hiệu chỉnh thứ hai sẽ bao gồm những đợt sóng ngắn hơn được xác đinh bởi những đợt phục hồi ngắn hạn ngắn hạn. Tình trạng này diễn ra nhiều lần – mỗi xu hướng là một phần của xu hướng lớn hơn kế tiếp và bản thân nó cũng được cấu thành từ những xu hướng nhỏ hơn. (Xem hình 5 và 6)

Trong hình 5, xu hướng chính tăng với những đỉnh và đáy đi lên. (điểm 1 2,3,4). Giai đoạn hiệu chỉnh (2-3) thể hiện sự hiệu chỉnh xu hướng trung gian trong phạm vi một xu hướng tăng chính. Tuy nhiên, hãy lưu ý rằng sóng 2-3 cũng được phân thành 3 sóng nhỏ hơn (A,B,C).

Xu hướng (trend)
Hình 5: Ví dụ về ba cấp độ của xu hướng: chính, trung gian và ngắn hạn. Điểm 1, 2, 3 và 4 thể hiện xu hướng chính.
Sóng 2-3 thể hiện sự hiệu chỉnh trong xu hướng chính. Mỗi sóng trung gian lần lượt lại được chia thành những xu hướng ngắn hạn. Ví dụ, sóng trung gian 2-3 được chia thành những sóng nhỏ A-B-C.
Xu hướng (trend)
Hình 6:  Xu hướng chính trong năm 1997 là tăng (trên một năm). Một sự hiệu chỉnh diễn ra suốt tháng 3. Một sự hiệu chỉnh trung gian diễn ra từ tháng 8 đến tháng 11 (trong 3 tháng). Sự hiệu chỉnh trung gian lại được chia thành ba xu hướng ngắn hạn

Tại điểm c, nhà phân tích sẽ cho rằng xu hướng chính vẫn tiếp tục tăng, trong khi xu hướng trung gian và ngắn hạn lại giảm. Tại điểm 4 cả ba xu hướng đều tăng. Việc hiểu rõ được sự khác biệt giữa các cấp bậc xu hướng khác nhau là rất quan trọng.

Khi một ai đó hỏi về kiểu xu hướng thị trường, thật khó nếu không muốn nói là không thể để giải đáp cho đến khi bạn biết được người đó đang nói đến loại xu hướng nào. Bạn có thể phải trả lời theo cách thức đã được nhắc đến trên đây thông qua việc xác định ba loại xu hướng khác nhau.

Có một chút hiểu nhầm nảy sinh do nhận thức khác biệt của các nhà giao dịch đối với khái niệm về xu hướng. Đối với các nhà giao dịch dài hạn, sự biến động giá từ vài ngày đến vài tuần có thể không mấy quan trọng. Nhưng đối với nhà giao dịch theo ngày, sự gia tăng trong hai hoặc ba ngày sẽ cấu thành một xu hướng tăng. Điều đặc biệt quan trọng là phải hiểu được các cấp độ khác nhau của xu hướng và chắc chắn rằng tất cả những gì dính dáng giao dịch đều đang cùng đề cập đến một vấn đề.

Nhìn chung, hầu hết các phương pháp tuân theo xu hướng đều tập trung vào xu hướng trung gian kéo dài trong vài tháng. Xu hướng ngắn hạn ban đầu được dùng để xác định thời điểm. Trong một xu hướng tăng trung gian, những điều chỉnh giảm ngắn hạn sẽ được sử dụng để khởi động vị thế mua.

Viết một bình luận